This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Cau hoi Dia ly. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Cau hoi Dia ly. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2013

Vì sao núi Phú Sĩ vươn cao khác thường?


Vì sao núi Phú Sĩ vươn cao khác thường?

Biểu tượng của đất nước Mặt trời mọc - ngọn núi Phú Sĩ tuyệt mỹ - lâu nay vẫn khiến các nhà khoa học thắc mắc. Có cái gì đó hơi bí ẩn ở nơi đây: Ngọn núi này quá to và hoạt động quá mạnh so với vị trí của nó.
Phú Sĩ nằm trên một đới hút chìm, là ranh giới giữa hai mảng thạch quyển. Tại đây, mảng thạch quyển Philippine chìm xuống bên dưới Nhật Bản. Quá trình này làm nóng chảy đá, tạo ra rất nhiều túi dung nham nhỏ.

Thông thường, các núi lửa hình thành trong những khu vực như vậy có xu hướng yên tĩnh (ít khi phun trào) và thường bé nhỏ, đơn giản bởi chúng không nhận được đủ lượng magma cần thiết để to ra và hoạt động mạnh hơn.

Nhưng ngọn núi Phú Sĩ lại cao bất thường, và tạo ra vật liệu với tốc độ khoảng 10.000 kilomét khối sau 100.000 năm, lớn hơn các núi lửa khác ở điều kiện tương tự. Thêm nữa, dung nham của nó lại hơi giống với loại được tạo ra ở các dãy núi giữa đại dương (nơi hai mảng thạch quyển tách rời nhau, để magma ở dưới sâu phun trào lên).

Người ta đã khám phá ra một vết “rách” trong mảng thạch quyển biển Philippine ở ngay bên dưới chân núi Phú Sĩ. Từ vết rách này, một lượng lớn manti đã dâng lên, lấp đầy khoang chứa dung nham của ngọn núi, khiến cho núi lửa cao thêm và hoạt động mãnh liệt hơn các anh chị em của nó. Vết rách này được tạo ra khi hai mảng lục địa ở gần đó va vào khoảng 2 triệu năm trước đây.

Đảo hình thành như thế nào?


Đảo hình thành như thế nào?

Nằm xa lắc ngoài khơi, một hòn đảo xinh đẹp với cây cối xanh rờn nhưng cô độc giữa bốn bề nước mênh mông. Cách nó hàng trăm km, một vòng tròn san hô trắng muốt lằn trên nền đại dương xanh ngắt cũng đang một mình chống chọi với sóng gió đại dương. Vì sao chúng lẻ loi vậy nhỉ?

Một số đảo vốn là bộ phận của lục địa. Do vỏ Trái đất vận động, giữa chúng và lục địa xuất hiện dải đất đứt gãy chìm xuống do đó mà thành đảo ngăn cách với lục địa bằng biển. Các đảo Đài Loan, Hải Nam ở Trung Quốc đều được hình thành như vậy. Cũng có khi do sông băng tan, mực nước biển dâng lên làm nhấn chìn các phần lõm ở bên bờ đại lục, chỉ còn lại một số vùng đất cao, đỉnh núi biến thành đảo.

Ngày nay, người ta còn phát hiện được do chịu tác dụng của lực trường, lục địa xảy ra những vết đứt gãy rất sâu, rất lớn và các vật chất trong lòng đất tràn ra theo vết nứt hình thành đáy biển mới, có một số mảnh vỡ từ lục địa phân tách tạo ra đảo ở cách xa lục địa. Theo nghiên cứu, hòn đảo lớn nhất thế giới Greenland đã phân tách từ lục địa châu Âu.

Từ núi lửa

Trong biển cũng còn rất nhiều hòn đảo vốn không phải là lục địa, mà là do các dung nham và vật chất vụn khác từ núi lửa phun ra tích tụ dưới đáy biển tạo nên. Quần đảo Hawaii ở giữa Thái Bình Dương là một minh chứng điển hình. Chúng là một dãy núi lửa nhô lên khỏi mặt nước.

Những đảo hình thành theo cách này nếu không có dung nham và các vật chất núi lửa tiếp tục bồi đắp thì có thể bị sóng biển va đập mà sụt lở cho đến khi mất hẳn dấu vết trên mặt biển. Tuổi thọ của chúng chỉ kéo dài vài năm thậm chí chỉ mấy tháng. Nhưng nếu vật chất không ngừng phun ra và tích tụ lại làm cho các đảo có thể tích tương đối lớn thì chúng có thể tồn tại lâu dài.

Đến san hô

San hô cũng là những người “thợ xây” đảo tích cực. Chúng tụ hợp lại với nhau, tiết ra chất đá vôi, tạo nên những “cây” san hô không ngừng sinh sôi nảy nở. Sóng gió có thể làm vỡ một bộ phận của chúng, nhưng những mảnh vụn đó lại lấp đầy khoảng trống trong “rừng san hô” làm cho chúng càng thêm chắc chắn. Cùng với xương của các sinh vật khác, chúng tích tụ lại thành những tảng đá ngầm và hòn đảo mọc đứng thẳng trong biển. Mặc dù diện tích của các đảo san hô không lớn, độ cao nhô lên mặt biển cũng có hạn, thường chỉ từ vài đến vài chục mét, nhưng chúng vẫn có thể tồn tại vững vàng giữa đại dương.

San hô cư trú ở vùng nước biển ấm, trong và có hàm lượng muối thích hợp. Chúng chỉ có thể sống ở những vùng nước nông, độ sâu vài chục mét. Chúng cần bám vào đáy biển có đá để mọc lên, vì thế rất nhiều đảo san hô được phân bố tại đường giáp giới với lục địa, như những đảo san hô ở bên bờ Đông Bắc Australia kéo dài tới hơn 2.000 km. Ở những nơi biển sâu, san hô không thể sinh trưởng, nhưng ở những nơi tồn tại núi lửa thì chúng có thể lấy núi lửa làm cơ sở, xoay quanh núi lửa để sinh sôi. Nếu phần giữa của núi lửa chìm xuống nước mà san hô vẫn tiếp tục sinh sôi hướng lên trên, một đảo san hô có hình vòng tròn mà ở giữa là nước. Đó chính là các vòng tròn trắng đặc biệt trên biển.

10 hòn đảo lớn nhất thế giới


10 hòn đảo lớn nhất thế giới

1. Greenland, Bắc Đại Tây Dương (Đan Mạch) 2.175.600 km2
2. New Guinea, Tây Nam Thái Bình Dương (Indonesia, Papua New Guinea) 808.510 km2
3. Borneo, Tây Thái Bình Dương (Indonesia, Brunei và Malaysia) 751.100 km2
4. Nước cộng hoà Madagascar, Ấn Độ Dương 587.041 km2
5. Baffin, Bắc Đại Tây Dương, (Canada) 507.451 km2
6. Sumatra, Đông Bắc Ấn Độ Dương, (Indonesia) 473.605 km2
7. Honshu, Thái Bình Dương, (Nhật Bản) 230.455 km2
8. Anh quốc 229.870 km2
9. Ellesmere, Bắc Băng Dương, (Canada) 212.688 km2
10. Victoria, Bắc Băng Dương, (Canada) 212.199km2.

Đế quốc Ôt-tô-man ra đời như thế nào?


Đế quốc Ôt-tô-man ra đời như thế nào?

Giữa thế kỷ XIII, Tiểu Á rơi vào tình trạng hỗn loạn. Đế quốc Đông La Mã hùng bá Tiểu Á mấy thế kỷ lúc này đang lấy Ni-xê làm cứ điểm đấu tranh giành lại Công-xtan-ti-nôp bị Thập tự quân chiếm. Người Tuyêc-xen-guc một thời cường thịnh đã bị quân Mông Cổ đánh cho tan tác khi họ xâm nhập Tiểu Á. Một nhóm thủ lĩnh người Tuyêc chiếm lĩnh các sơn trại, tranh giành lẫn nhau, Tiểu Á trở nên vô chủ.

Tại miền Bắc Tiểu Á giáp ranh với Đế quốc Đông La Mã, một số võ sĩ theo đạo I-xlam kéo bè kết đảng tự xưng là các “Ca chi”, họ giương ngọn cờ “Thánh chiến” của đạo I-xlam, nhiều lần đánh chiếm lãnh thổ của Đế quốc Đông La Mã. Một người tên là An-tô-crun, một thủ lĩnh người Tuyêc ở thảo nguyên Trung Á đã tập hợp được khá nhiều “Ca chi” rất thiện chiến, nhờ đó mà ông đã không ngừng mở rộng vùng đất. Năm 1282, An-tô-crun tạ thế, con của ông là Ô-man lên kế nghiệp, đã đánh bại Đế quốc Đông La Mã, chiếm thêm một vùng đất lớn.

Khoảng năm 1300, Ô-xman tuyên bố độc lập, tự xưng là A-mia (nguyên thủ). Quân của Ô-xman đều được gọi là “Ô-man Tuyêc”. Năm 1317, Ô-xman tiến công thành Pu-ru-xa. Thành này là một nơi hiểm yếu của Đông La Mã phía Bắc Tiểu Á, được phòng thủ rất chặt. Sau khi chiếm được thành Pu-ru-xa, Ô-xman đóng đô tại đây, khống chế eo biển Đac-đa-nen, con đường quan trọng thông sang châu Âu. Nước mới thành lập này mang tên ông, gọi là đế quốc Ôt-tô-man.

Năm 1926, Ô-xman lìa đời, con của Ô-xman là Un-ban lên kế vị. Ông xây dựng một đội quân thường trực hùng mạnh, liên tục xâm lược các nước xung quanh. Trong 10 năm, cơ bản đã gạt hẳn thế lực Đông La Mã ra khỏi Tiểu Á. Un-ban cũng coi trọng cả về mặt chính trị, bước đầu xây dựng được các thể chế của một Quốc gia, thực hiện chế độ tuyển quân, phong đất cho người có công, coi trọng giáo dục, xây dựng trường học của người Ôt-tô-man. Un-ban còn lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ của Đông La Mã để can thiệp vào. Năm 1354, Un-ban chiếm lĩnh Ca-ri-pô-ri, xây dựng Pháo đài đầu tiên, đầu cầu đánh chiếm châu Âu. Con ông là Mu-rat sau khi kế vị không gọi là A-mia nữa, tự gọi là Xun-tan, tiếp tục tăng cường tấn công Đông La Mã. Năm 1361 chiếm thị trến quan trọng là Pháo đài A-tơ-ri-a và dời đô về đó, đổi tên là Ê-tin-nây. Bấy giờ người Thổ Nhĩ Kỳ không ngừng đổ dồn về Ban-căng. Đế quốc Đông La Mã chỉ còn giữ lại được thành Công-xtan-ti-nôp đơn lẻ. Thừa cơ Đế quốc Ôt-tô-man thôn tính luôn phần đất miền Nam Xan-vê-a của các nước vùng Ban-căng. Năm 1396, quân Ôt-tô-man dưới sự chỉ huy của Xun-tan Ba-ê-rai đã chiến thắng đội quân Thập tự quân của nhiều nước châu Âu (do Giáo hoàng giúp đỡ) tại Nê-khơ (trên đất Bungari ngày nay). Đến cuối thế kỷ XIV, Đế quốc Ôt-tô-man đã kiểm soát toàn vùng Ban-căng.

Năm 1402 trong cuộc đại chiến với Đế quốc Ti-mua ở Trung Á, Xun-tan Ba-e-rai bị bắt sống. Đế quốc Ôt-tô-man suy yếu trong một thời gian.

Năm 1451, Mô-ha-met đệ nhị kế vị, quyết tâm tiêu diệt Đông La Mã. Tháng 4 năm 1453, Mô-ha-met II đích thân dẫn đại quân đánh chiếm Công-xtan-ti-nôp. Đế chế Đông La Mã tồn tại hơn 1000 năm đã bị diệt vong. Bốn năm sau, Mô-ha-met II lại dời đô đến Công-xtan-ti-nôp, đổi tên là I-xtan-bun.

Thời kỳ Xê-ri-mu thống trị, Đế quốc này lại chiếm Xi-ri, Ai Cập, Mai-ca Mai-ti-na. Từ năm 1520 đến năm 1566, người kế vị Xê-ri-mu là Xu-li-man I đạt đến thời kỳ cực thịnh. Vị chính trị gia, quân sự gia nổi tiếng này được tôn xưng là Đại đế. Ông liên tục chinh chiến ở Trung Âu, Tây Á và Bắc Phi. Năm 1521 ông dẫn quân chiếm Ben-gơ-rat. Năm 1526 đi đánh Hungari, 29-8 chiếm thủ đô Bu-đa, tiêu diệt Hungari. Năm 1529 ông lại dẫn đại quân đánh Viên, khiến cho cả châu Âu rung động. Ở châu Á, họ nhiều lần đánh bại Ba Tư, chiếm Irắc, Croatia, Tây Ac-mê-ni. Ở Bắc Phi, họ lần lượt chiếm Li-băng, An-giê-ri, Tuy-ni-di tranh hùng trên Địa Trung Hải. Lúc này họ trở thành một Đế quốc lớn xuyên qua 3 châu lục Âu, Á, Phi

Cái chết của Xu-ri-man đã đánh dấu sự kết thúc thời kỳ cực thịnh của Đế quốc Ôt-tô-man. Năm 1572, hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ bị liên quân Vơ-ni-dơ và Tây Ban Nha tiêu diệt. Từ đó đế quốc Ôt-tô-man suy yếu dần. Đến năm 1922, Đế quốc Ôt-tô-man chấm dứt sau cuộc cách mạng Cộng hoà.

Thành Vaticăng nằm ở đâu?


Thành Vaticăng nằm ở đâu?

Góc Tây Bắc thàn Rôm nước Ý có một ngọn đồi gọi là Va-ti-căng. Trên ngọn đồi có một nhà thờ lớn nhất thế giới, gọi là nhà thờ Xanh Pi-tơ, quanh đó có một số cung điện to đẹp đàng hoàng, người ta gọi là cung giáo hoàng. Ngọn đồi Va-ti-căng nhỏ bé đó lại là một quốc gia có chủ quyền độc lập hẳn hoi. Tên chính thức của đất nước này là “Thành quốc Va-ti-căng”. Lãnh thổ chỉ vẻn vẹn có 0,44 km2, chỉ bằng cố cung của Trung Quốc. Dân số cũng chỉ hơn 1.000 người… Nhưng có đủ cả bưu điện, phát thanh, truyền hình, ngân hàng và một đội quân thường trực gồm 100 vệ sỹ người Thuỵ Sỹ, giáp trụ nghiêm chỉnh. Nước này cũng thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước trên thế giới. Mặc dù vậy, nhà vua, tức giáo hoàng La Mã của thành Va-ti-căng vẫn than thở: “Thời thế đổi thay, nay không còn như xưa nữa”.

Tại sao vậy? Năm 754, Quốc vương của vương quốc Lông-bac-đi chiếm cứ phía Bắc I-ta-lia là A-xtôn-phơ (Astolfe) đem quân đánh xuống phía Nam, tấn công vào La-vi-ni-um, trung tâm thống trị của đế quốc La Mã tại Ý, bao vây thành Rôm, nơi ở của Giáo hoàng. Giáo hoàng Xtê-phan II đã phải cầu cứu vua Pháp là Pê-panh giải cứu thành Rôm.

Năm 754, Pê-panh đánh bại người Lông-bac-đi, giải vây cho thành Rôm. Pê- panh dâng tặng Đức Giáo hoàng miền Trung nước Ý dành được trong chiến tranh, bao gồm vùng La-vi-ni-um và vùng phụ cận thành Rôm. Từ đó Giáo hoàng lập nên một nước của Giáo hoàng ở miền Trung nước Ý, thành Rôm trở thành thủ đô của nước Giáo hoàng.

Từ năm 926 trở đi, nước Giáo hoàng trở thành một bộ phận của đế quốc La Mã thần thánh. Năm 1198 Anh-nô-xăng III đăng quang lên chức Giáo hoàng, ông nêu cao quyền lực của Giáo hoàng, ép vua các nước châu Âu phải cúi đầu nghe lệnh. Quyền lực của Giáo hoàng đạt đến đỉnh cao.

Cuối thế kỷ XVIII, quân đội Na-pô-lê-ông quét ngang châu Âu, chiếm Rôm, Giáo hoàng Pi-e VI bị mất quyền lực thế tục, chịu mất lãnh thổ của nước Giáo hoàng. Nước Giáo hoàng thành lập nước Cộng hoà Rôm. Mặc dù nước Giáo hoàng sau này được phục hồi, nhưng không còn được như xưa nữa.
Phong trào thống nhất nước Ý sôi nổi năm 1870, nhân dân Ý tấn công vào nước Giáo hoàng và nước Giáo hoàng sáp nhập vào vương quốc I-ta-lia. Tên nước Giáo hoàng không còn nữa.

Năm 1929, Mut-xô-li-ni tên đầu sỏ phát xít Ý muốn được sự ủng hộ của Giáo hoàng, đã ký với Giáo hoàng một hiệp định: Italy công nhận Va-ti-căng là quốc gia có chủ quyền của Giáo hoàng. Giáo hoàng công nhận sự diệt vong của nước Giáo hoàng. Italy tách Va-ti-căng ra khỏi thành Rôm, để Giáo hoàng lập nên một trong một nước, đó là “thành Va-ti-căng” (Toà thánh Va-ti-căng).

Châu Phi đã bị chia cắt như thế nào?


Châu Phi đã bị chia cắt như thế nào?


Châu Phi trong con mắt của người châu Âu hàng nghìn năm nay vẫn là mảnh đất thần bí. Ngay từ thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, trong sách của Hê-rôt-đơ-tôt (Herodotus), nhà sử học Hy Lạp cổ vẫn được mệnh danh là “Cha đẻ của lịch sử” đã mô tả sa mạc, sông lớn và rừng rậm của châu Phi. Nhưng người châu Âu hiểu biết về châu Phi quá ít, trong một thời gian dài châu Phi chỉ được coi là một dải bờ biển, chứ không phải là một châu lục. Khi đó người châu Âu vẽ trên bản đồ, phần đất của châu Phi vẫn bỏ trống. Trên đó chỉ vẽ mấy con sông lớn. Ngoài ra chỉ có những con voi.

Đầu thế kỷ XV, thực dân châu Âu bắt đầu đặt chân lên mảnh đất thần kỳ này. Năm 1415, người Bồ Đào Nha đi qua eo biển Gi-bơ-ran-ta (Gibraltar) chiếm thành Xơ-ta (Centa) của Ma Rốc, xây dựng một căn cứ điểm thực dân đầu tiên ở châu Phi. Tháng 3 năm 1488, Đi-at (Baratolomeu Dias) là người Bồ Đào Nha cùng với thuỷ thủ của ông đổ bộ lên cực Nam của bờ biển châu Phi. Nơi đây được quốc vương Bồ Đào Nha đặt tên là mũi Hảo Vọng – có nghĩa là miền đất mang lại “những hy vọng tốt đẹp”, nhưng nó đã mang lại cho châu Phi tai họa hàng mấy trăm năm về sau. Song song với con đường biển mới khai phá, thực dân châu Âu bắt đầu xâm lược châu Phi.

Năm 1602 Hà Lan thành lập công ty Đông Ấn, năm 1626 lại thành lập công ty Tây Ấn. Chính phủ Hà Lan quy định lấy sông Ka-phu-ê (Kafue) làm gianh giới. Phía Đông thuộc về công ty Đông Ấn, phía Tây thuộc về công ty Tây Ấn. Đến nửa sau thế kỷ XVII, Anh và Pháp tăng cường xâm lược châu Phi. Hầu như toàn bộ vùng ven biển châu Phi đều bị thực dân phương Tây chiếm lĩnh.

Sau khi bọn thực dân cướp xong vùng ven biển, chúng bắt đầu xâm nhập vào nội địa với quy mô lớn. Đến năm 1876, Anh đã chiếm xong Nam Phi, Zambia, Sieraleono, Ghana và vùng ven biển Ni-gie-ria; Pháp chiếm Senegal, Algeria, Guinea, Bờ Biển Ngà (Ivory Coast), DahoMe nay là Bê-nanh (Benin); Bồ Đào Nha chiếm một phần sa mạc Sahara.

Đến cuối thế kỷ XIX, cùng với bước quá độ sang chủ nghĩa đế quốc, các nước phương Tây tăng cường xâu xé mảnh đất châu Phi. Năm 1876 họ triệu tập họp địa lý quốc tế ở Bruc-xen (Bỉ), sau khi hội nghị kết thúc họ vội vã bắt tay ngay vào hành động.

Dã tâm xâm chiếm và xâu xé lục địa châu Phi của bọn đế quốc chủ nghĩa đã gây nên những trận đấu đá triền miên, khi thì đao búa súng gươm, khi thì ngoại giao ngọt nhạt, ký kết hiệp ước này đến hiệp ước kia để chuyển nhượng các vùng đất thuộc địa.

Mãi đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX các nước phương Tây mới ăn chia xong châu lục lớn thứ nhì thế giới này. Trong đó Pháp chiếm 10.790.000 km2, 35,6% diện tích châu Phi; Anh chiếm 8.860.000 km2, 29% châu Phi; Đức chiếm 2.340.000 km2, 7,7% châu Phi; Bỉ chiếm 2.340.000, 7,7% châu Phi; Italia chiếm 2.333.000 km2, 7,75%; Bồ Đào Nha chiếm 2.000.000 km2, 7%; Tây Ban Nha chiếm 300.000 km2, 1% diện tích châu Phi.

Sang đầu thế kỷ XX, trên lục địa châu Phi chỉ còn Ê-ti-ô-pia và Li-bê-ria là còn độc lập về danh nghĩa. Còn tất cả các miền đất khác đều bị các nước châu Âu chia nhau hết

Trong lịch sử, Đài Loan đã được quy về Trung Quốc như thế nào?


Trong lịch sử, Đài Loan đã được quy về Trung Quốc như thế nào?

Các hòn đảo quý Đài Loan từ cổ tới nay đã là lãnh thổ của Trung Quốc, nhưng trong lịch sử nó đã hai lần bị nước ngoài xâm lược và chiếm cứ. Trải qua những cuộc chiến đấu chung của nhân dân hai bên bờ biển, Đài Loan cũng đã được quy về Trung Quốc.

Năm 1624, bọn thực dân Hà Lan xâm chiếm Đài Loan, nhân dân Đài Loan đã không ngừng khởi nghĩa chống lại quyền thống trị thực dân của chúng.

Năm 1661, anh hùng dân tộc là Trịnh Thành Công đã chỉ huy nhiều vạn tướng sĩ bắt đầu thu phục Đài Loan. Họ đổ bộ lên cảng Hoà Liêu (trong địa phận Đài Loan), do có được sự ủng hộ rất to lớn của nhân dân Đài Loan, họ tiến tới vây đánh thành Xích Khảm là nơi có tổng đốc phủ Hà Lan. Sau tám tháng chiến đấu, bọn thực dân Hà Lan cuối cùng cũng phải đầu hàng.

Trịnh Thành Công thu phục Đài Loan không được bao lâu thì mắc bệnh qua đời. Con trai ông là Trịnh Kinh lên thay ông cai quản Đài Loan.

Khi đó người làm chủ về chính trị trên Đại Lục là hoàng đế Khang Hy của triều đình Mãn Thanh, đối với Đài Loan ông ta áp dụng phương châm: “dỗ dành làm cho quy phục” và đã từng sai người vượt biển sang Đài Loan để đàm phán hoà bình với Trịnh Kinh. Nhưng hối Trịnh Thành Công còn sống, ông đã từng được vị hoàng đế lưu vong triều Nam Minh ban cho họ Chu kèm theo danh hiệu “Quốc Tính Da”, vì thế hai bố con họ Trịnh giữ thái độ chống đối đến cùng với chính phủ nhà Thanh, và các cuộc đàm phán hoà bình chẳng đem lại kết quả gì cả.

Năm 1681, Trịnh Kinh qua đời, người lên kế vị là con thứ của ông ta mới mười hai tuổi tên là Trịnh Khắc Sảng.

Đến thời kỳ này, hoàng đế Khang Hy quyết định xuất quân thu phục Đài Loan. Ông ra lệnh cho đại tướng Thi Lang chỉ huy. Thi Lang vốn là tướng cũ của quân Trịnh quy hàng. Qua bảy ngày đêm kịch chiến, Thi Lang chiếm được 36 hòn đảo Bành Hồ. Trịnh Khắc Sảng thấy quyết tâm của quân đội phân tán bèn sai người đi cầu hoà.

Năm 1684, Trịnh Khắc Sảng vâng mệnh hoàng đế Khang Hy về kinh và được phong làm nhất đẳng công tước, đồng thời Khang Hy cố hết sức lấy lòng của quần chúng, đặt ra Đài Loan phủ ở Đài Loan thuộc về tỉnh Phúc Kiến.

Từ đó quan hệ của Đài Loan với lục địa ngày càng thêm mật thiết, kinh tế và văn hoá cũng ngày một phát triển.

Năm 1895, Đài Loan lại bị đế quốc Nhật xâm chiếm. Mãi đến năm 1945, nhân dân Trung Quốc đã chiến đấu rất gian khổ và dũng cảm, mới giành được thắng lợi trong cuộc chiến tranh kháng chiến chống Nhật. Vì thế Đài Loan mới trở về với Trung Quốc nhưng lại bị chia cắt. Ngày nay, nhân dân hai bên bờ biển cùng mong ngóng sớm có ngày được đoàn viên.

Tại sao Vạn Lý Trường Thành không được đưa vào “Bảy kỳ quan thế giới”?


Tại sao Vạn Lý Trường Thành không được đưa vào “Bảy kỳ quan thế giới”?


Vạn Lý Trường Thành là một công trình kiến trúc vĩ đại cổ xưa nhất trên thế giới. Nom nó như một con rồng khổng lồ uốn khúc từ trên xuống, kéo dài liên miên tới 6.700 km. Cùng với kim tự tháp Ai Cập, Vạn Lý Trường Thành được coi là hai kỳ tích có tính chất tiêu biểu nhất trên Trái đất này. Tuy nhiên tên của kim tự tháp Ai Cập thì được đặt lên hàng đầu của “Bảy kỳ quan thế giới”, còn Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc lại bị gạt ra ngoài bảy kỳ quan ấy. Đó là sao vậy?

“Bảy kỳ quan thế giới” gồm có: Kim tự tháp của Ai Cập, vườn treo Babilon, lăng mộ Halicanax ở Thổ Nhĩ Kỳ, tượng Thần Dơt trên núi Olympia ở Hy Lạp, đền thờ thần Artêmix ở Ephedow, ngọn đèn thần Phalax ở Ai Cập, bức tượng tạc hình thần Apolon ở đảo Rôt.

“Bảy kỳ quan thế giới” này đã được nhà thơ Antơbat nêu lên trong thế kỷ II trước Công nguyên. Hồi ấy nhà thơ này sống tại thành Xidon ở Phenixi trên bờ biển phía Đông của Địa Trung Hải, mà trong thời kỳ ấy thì còn chưa khai thông con đường tơ lụa từ Trung Quốc sang tới bờ biển phía Đông Địa Trung Hải. Vì thế nhà thơ nói trên còn chưa được biết rằng ở phương Đông có một toà Trường Thành hùng vĩ. Bởi vậy ông đã không đưa toà Trường Thành ấy vào một trong “Bảy kỳ quan thế giới” và đó là điều có thể hiểu được.

Cho tới thời kỳ cận đại, cách nói về “Bảy kỳ quan thế giới” lại có những nội dung khác. Hiện nay, “Bảy kỳ quan thế giới” mà người ta nói chỉ có: Đấu trường cổ hình tròn ở thành La Mã nước Italia, đèn biển Phalax ở Alecxandria nước Ai Cập, Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc, các công trình kiến trúc bằng đá xếp hình vòng tròn trên biển Xư Khân ở nước Anh, ngọn tháp nghiêng Pixa ở Italia, Tháp Lưu Ly ở Nam Kinh Trung Quốc, Nhà thờ Xôphi ở Ixtambun Thổ Nhĩ Kỳ.

Thế giới có bảy kỳ quan nào?

Thế giới có bảy kỳ quan nào?

Hai thế kỷ trước Công nguyên, thành La Mã có một tác giả lữ hành gia tên là Antơbat. Sau khi đi chu du ở các nước trên thế giới, ông đã nêu lên bảy nơi danh thắng lớn phản ảnh được trình độ khoa học và văn hoá của toàn thể các vùng chung quanh biển Địa Trung Hải. Ngày nay người ta gọi bảy nơi danh thắng này là “Bảy kỳ quan thế giới”. “Bảy kỳ quan thế giới” gồm có:

1. Kim tự tháp cổ Ai Cập: Đó là công trình kiến trúc cổ xưa nhất trong lịch sử của bảy kỳ quan, đã được người đời xưa xây dựng trước đây khoảng 4.600 năm, cho tới nay vẫn còn gìn giữ hoàn hảo.

2. Vườn treo ở Babilon: Là một đài đắp bằng đất có bốn tầng, cao 25 mét, trên mỗi tầng có trồng những hoa cỏ kỳ lạ, nhìn từ xa thì nom cứ như là một vườn hoa đẹp treo trên cao. Tương truyền vườn hoa này là do Quốc vương Babilon đã cho xây dựng để an ủi bà Vương phi sống xa cố hương.

3. Đền thờ nữ thần Artemix ở Ephdo: Đền thời này cao 120 mét, rộng 65 mét, xung quanh có 127 cột trụ bằng đá. Trên các cột đá này mang những hình điêu khắc thể hiện các chuyện thần thoại

4. Tượng Thần Dớt ở Olympia đặt trong đền thờ Thần Dớt trên núi Olympia ở miền Nam Hy Lạp: Tượng cao 15 mét, thân bằng gỗ đen, trang sức bằng vàng, ngà voi và đá quý. Tay phải của Thần giơ ra bức tượng nữ thần Chiến thắng, còn tay trái nắm chiếc gậy tượng trưng cho quyền uy của mình, thần thái rất là trang nghiêm. Tiếc rằng trong thế bức tượng này đã bị huỷ hoại.

5. Lăng mộ Halicacnax ở Thổ Nhĩ Kỳ: Thế kỷ IV trước Công nguyên, quốc vương Calia ở tiểu Asia đã xây dựng khu lăng mộ này cho vương hậu. Lăng mộ được dựng lên bằng đá hoa hình chữ nhật, phía trên có 24 hình kim tự tháp. Trên đỉnh có tạc tượng vua Halicacnax ngồi cùng với vương hậu trên chiến xa. Đến thế kỷ XV, lăng mộ này đã bị huỷ hoại.

6. Tượng thần Mặt trời trên đảo Rôt ở Địa Trung Hải: Bức tượng này đã được sáng tác để kỷ niệm sự kiện đảo Rôt thoát khỏi cuộc vây hãm kéo dài. Tượng được đúc bằng đồng thau, cao tới 39 mét, đặt ở cửa hải cảng của đảo này. Năm 224 trước Công nguyên bức tượng đã bị phá huỷ trong một trận động đất.

7. Cây đèn biển ở Alecxandria làm trên đảo Phalax bên ngoài cửa hải cảng Alecxandria nước Ai Cập: cao 122 mét. Trên đỉnh tháp có bức tượng thần Apolon lớn. Đến đêm trên đỉnh tháp đốt một ngọn nến rất ta, chỉ dẫn cho tàu bè đi lại. Tương truyền kể lại rằng các tàu bè ở cách xa 40 km cũng có thể trông thấy ánh đèn trên đỉnh tháp. Ngọn đèn biển này còn được giữ cho tới thế kỷ XII sau Công nguyên.

Tại sao vĩ tuyến 38 trở thành đường phân giới giữa Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc?


Tại sao vĩ tuyến 38 trở thành đường phân giới giữa Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc?


Cuối thế kỷ XIX, Nhật Bản đem quân xâm lược chiếm Triều Tiên. Năm 1910, Nhật Bản cưỡng bức Triều Tiên ký “Điều ước Hàn - Nhật”, quy định toàn bộ chủ quyền của Triều Tiên vĩnh viễn bị chuyển nhượng cho Nhật Bản. Từ đấy Triều Tiên biến thành thuộc địa của Nhật Bản.

vĩ tuyến 38Sau khi chiến tranh thế giới II bùng nổ, Nhật Bản ký kết liên minh với phát xít Đức và Italia, đồng thời gây ra cuộc chiến tranh ở châu Á và Thái Bình Dương tháng 11 năm 1943, những người đứng đầu các nước Trung Quốc, Mỹ, Anh tuyên bố Cairô rằng sẽ đuổi Nhật Bản ra khỏi tất cả các vùng đát mà nước này xâm chiếm, trong đó có việc làm cho Triều Tiên được độc lập tự do.

Do sự cố gắng chung của các lực lượng chống phát xít ở tất cả các nước, tháng 8 năm 1945, Nhật Bản tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Căn cứ vào hiệp định đã ký kết, quân đội Mỹ và quân đội Liên Xô cũ cùng tiếp thu sự đầu hàng của quân đội Nhật Bản ở Triều Tiên. Còn về khu vực tiếp thu sự đầu hàng thì hồi bấy giờ đã quyết định lấy vĩ tuyến 38 độ Bắc làm đường phân giới: quân đội Nhật Bản ở phía Nam vĩ tuyến này sẽ đầu hàng quân đội Mỹ, còn quân đội Nhật Bản ở phía Bắc thì sẽ đầu hàng quân đội của Liên Xô cũ.

Hồi bấy giờ việc xác định vĩ tuyến 38 độ Bắc làm đường phân giới không có ý nghĩa chính trị hay quân sự gì cả, chẳng qua chỉ vì vĩ tuyến này nằm ở trung bộ nước Triều Tiên, làm cho hai khu vực tiếp thu lại đầu hàng của quân đội Nhật Bản đại khái bằng nhau mà thôi. Ngoài ra căn cứ vào hiệp nghị thì sau khi tiếp thu đầu hàng, Mỹ và Liên Xô phải tổ chức một Uỷ ban Liên hợp giúp cho Triều Tiên thành lập một chính phủ lâm thời, nhưng vì giữa hai nước Mỹ và Liên Xô vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề quan trọng chưa nhất trí, cho nên đến năm 1948 vẫn chưa thành lập được chính phủ lâm thời của Triều Tiên.

Tháng 8 năm 1948, tại miền Nam Triều Tiên thành lập nước Dân quốc Đại Hàn. Tháng 9 năm ấy, ở miền Bắc Triều Tiên thành lập nước Cộng hoà dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Vì đây là hai chính phủ có tính chất không giống nhau cho nên khó cử hành được cuộc phổ thông đầu phiếu toàn dân tộc.

Tháng 6 năm 1950, cuộc nội chiến ở Triều Tiên bùng nổ, quân Liên hiệp quốc do Mỹ đứng đầu, đem ngọn chiến tranh đốt lên bờ sông áp Lục. Quân Chí nguyện nhân dân Trung Quốc và Quân đội nhân dân Triều Tiên cùng đánh cho bè lũ xâm lược phải lui về vĩ tuyến 38.

Đến năm 1953, trên vĩ tuyền 38 đã ký kết hiệp định đình chiến và ở hai bên vĩ tuyến 38 lập nên khu phi quân sự rộng 2 km. Thật không ai có thể ngờ rằng đường phân giới tiếp thu sự đầu hàng năm đó của quân đội Nhật Bản lại có thể trở thành giới tuyến chia cắt lâu dài Bắc Triều Tiên và Nam Triều Tiên.

Những lời đe dọa và biện pháp trừng phạt lẫn nhau hiện nay khiến người ta lo ngại về nguy cơ tiếp diễn cuộc chiến tranh từng xảy ra cách đây 50 năm trên bán đảo Triều Tiên.

Năm 1950, khi cộng đồng quốc tế nỗ lực tái thiết sau Thế chiến II, một cuộc xung đột mới nổ ra ở vùng Đông Bắc Á. Nó được đánh dấu bằng những bước ngoặt bất ngờ của lịch sử và số thương vong khổng lồ. Ít nhất hai triệu dân thường và 1,5 triệu lính Triều Tiên thiệt mạng. Trong khi đó, số lính Mỹ chết trong trận chiến là 30.000, còn quân đội Hàn Quốc mất 400.000 người.

Trong phần lớn thời gian xảy ra chiến tranh, hai bên có lúc tìm cách đàm phán hòa bình. Khi thỏa thuận ngừng bắn được ký vào ngày 27/7/1953, không ai có thể tưởng tượng được rằng hơn 50 năm sau đó, bán đảo Triều Tiên về danh nghĩa vẫn ở trong tình trạng chiến tranh. Hai miền không đạt được hiệp ước hòa bình và khu vực biên giới vẫn dày đặc mìn, pháo và hàng trăm binh sĩ.
 

Cuộc chiến Triều Tiên khởi nguồn từ lịch sử phức tạp trên bán đảo và rộng hơn nữa là trong khu vực. Trung Quốc, Nhật và Liên Xô đều muốn có ảnh hưởng ở nơi này.

Sau cuộc chiến 1904- 1905, Nhật giành thế áp đảo và chính thức đô hộ bán đảo Triều Tiên từ năm 1910 cho đến khi Thế chiến II kết thúc.

Chỉ 7 ngày trước khi Nhật đầu hàng vô điều kiện năm 1945, Liên Xô đưa quân vào bán đảo Triều Tiên. Sau đó, Liên Xô và Mỹ đồng ý chia bán đảo này thành hai phần, phân cách ở vĩ tuyến 38. Liên Xô tiếp quản miền bắc còn Mỹ quản lý miền nam.

Liên Xô hậu thuẫn chế độ cộng sản ở miền bắc, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Kim Nhật Thành. Mỹ tổ chức bầu cử ở miền nam và ông Syngman Rhee đắc cử tổng thống. Quân đội hai nước rút khỏi bán đảo Triều Tiên trước năm 1949.

Quân đội Triều Tiên được Liên Xô huấn luyện và trang bị tốt. Họ có 135.000 binh sĩ, xe tăng và pháo. Trái lại, lực lượng Hàn Quốc chỉ có 98.000 và chỉ mang tính dân sự. Chính quyền cả hai miền đều muốn thống nhất bán đảo dưới một chế độ.

Rạng sáng ngày 25/6/1950, khi một nửa binh sĩ Hàn Quốc nghỉ cuối tuần, Triều Tiên bất ngờ tràn quân sang bên kia vĩ tuyến 38. Mỹ liền vội vàng huy động binh sĩ ở các căn cứ tại Nhật Bản. Tuy nhiên, lực lượng Mỹ và Hàn Quốc gặp khó khăn trong các cuộc đối đầu ban đầu với Triều Tiên. Cuối cùng, họ lui về cố thủ ở thành phố cảng Busan, phía đông nam bán đảo, trong khi Mỹ kêu gọi Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc ra tay giúp đỡ.


HĐBA liền thông qua một nghị quyết, kêu gọi tất cả các thành viên giúp Hàn Quốc chống Triều Tiên. Quyết định này chỉ đạt được sự đồng thuận vì đại biểu của Liên Xô, chắc chắn sẽ phủ quyết, vắng mặt trong phiên họp. Ông này tẩy chay tất cả các phiên họp của HĐBA cho tới khi Trung Quốc được gia nhập LHQ.
14 quốc gia trong đó có Australia, Bỉ, Canada, Colombia, Pháp, Hy Lạp, Hà Lan, New Zealand, Philippines, Nam Phi, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ và Anh cam kết đưa quân tới bán đảo ở Đông Bắc Á. Trong số 260.000 lính được điều động, Mỹ, Anh, Canada và Australia chiếm ưu thế.

Trong khi chờ viện binh, lực lượng ít ỏi ở Hàn Quốc cố gắng giữ Busan. Đường tiếp tế của Triều Tiên cũng bị kéo căng một cách nguy hiểm do tiến quân quá nhanh.

Ở phía nam bán đảo, trước tình thế nguy ngập, chỉ huy của quân đoàn số 8 của Mỹ, tướng Walton Walker, đã lên tiếng khuấy động binh sĩ. Ông có bài phát biểu nổi tiếng "Đứng lên hoặc là chết" nhấn mạnh rằng họ sẽ không rút lui nữa. Kết quả là binh sĩ Hàn Quốc cùng 4 sư đoàn Mỹ cầm cự được khoảng 6 tuần. Tuy nhiên, đây cũng là chiến dịch mà quân Mỹ gặp hao tổn về người nhiều nhất trong suốt chiến tranh liên Triều. Họ đã mua thời gian bằng máu.

Trong khi quân đội Triều Tiên bao vây Busan, chỉ huy lực lượng LHQ – tướng Douglas MacArthur – toan tính đảo ngược tình thế chiến tranh. Ngày 15/9/1950, ông phát động một chiến dịch mạo hiểm nhằm vào thành phố cảng Inchon ở phía tây. Mục đích là cắt đứt đường hậu cần và liên lạc của Triều Tiên, khiến họ bị mắc kẹt giữa Inchon và Busan.

Kế hoạch này được cho là mạo hiểm vì binh sĩ sẽ phải vượt qua những đợt thủy triều khó lường ở ngoài khơi và đập ngăn nước cao tới 4 m, sau đó sẽ phải đối mặt với pháo đài kiên cố ở Inchon vì nơi này đã bị Triều Tiên chiếm giữ. Tuy nhiên, tiểu đoàn của MacArthur đánh bại những đợt kháng cự và không gặp đòn phản công nào.

Cùng lúc đó, quân đoàn số 8 của Mỹ làm chủ Busan. Binh sĩ Triều Tiên bắt đầu lui quân. Đến ngày 25/9, lực lượng đồng minh đã giành lại Seoul.

Đồng minh đáng lẽ dừng lại ở vĩ tuyến 38. Tuy nhiên, Tổng thống Mỹ Harry Truman muốn thống nhất bán đảo dưới một chính phủ ủng hộ phương Tây. Tướng MacArthur liền ra lệnh binh sĩ đuổi theo quân Triều Tiên qua biên giới. Tuy nhiên, Truman vì lo ngại chiến tranh mở rộng yêu cầu MacArthur không được xâm phạm Trung Quốc. Bắc Kinh cũng cảnh báo sẽ tham chiến nếu như đồng minh tràn sang Triều Tiên.

Hôm 15/10, tại đảo Wake Island ở Thái Bình Dương , tướng MacArthur và Tổng thống Truman cùng bàn bạc tương lai chiến tranh. MacArthur tỏ ra tự tin vào thành công sớm trong chiến dịch Triều Tiên và không e ngại việc Trung Quốc can thiệp.

Chỉ 10 ngày sau, quân đội Trung Quốc tiến hành một đợt tấn công đầu tiên nhằm vào đồng minh. Sau đó tướng MacArthur ra lệnh tiến hành chiến dịch dứt khoát ngày 24/11, đưa binh sĩ dấn sâu tới tận sông Yalu, nơi đánh dấu biên giới giữa Triều Tiên và đông bắc Trung Quốc. Ông lạc quan hy vọng rằng bước đi này sẽ giúp kết thúc chiến tranh và cho phép binh sĩ “về nhà trước Giáng sinh”. Tuy nhiên, nó lại khiến đảo ngược tình thế. Hôm sau, khoảng 180.000 "quân tình nguyện" Trung Quốc tấn công đáp trả.

Quá choáng váng, MacArthur thốt lên: “Chúng ta đang đối mặt với một cuộc chiến hoàn toàn mới”.
Ông muối mặt ra lệnh rút quân trong điều kiện thời tiết dưới 0 độ, đưa binh sĩ về sau vĩ tuyến 38 trước thời điểm cuối năm.

Khi binh sĩ Trung Quốc tiến hành một chiến dịch mới, lực lượng đồng minh buộc phải rút lui tới phía nam Seoul vào tháng 1/1951. Tại đây, nhờ vị thế sân nhà, binh sĩ LHQ phòng vệ tốt hơn. Sau vài tháng chiến đấu, khu vực vĩ tuyến 38 bình ổn trở lại.

Tổng thống Truman lúc này tuyên bố LHQ sẵn lòng ký hiệp ước đình chiến. Tuy nhiên, tướng MacArthur không muốn nhượng bộ. Ông công khai quan điểm mở rộng chiến tranh với Trung Quốc và qua mặt tổng thống, đệ trình ý kiến lên quốc hội.

Truman sa thải tướng MacArthur vì bất tuân vào tháng 4/1951. MacArthur được thay thế bởi tướng Matthew Ridway. Ông này từng thay vị trí chỉ huy quân đoàn số 8 của Mỹ ở Hàn Quốc – tướng Walton Walker – sau khi ông chết vì tai nạn xe hơi.

 
Bán đảo Triều Tiên sau chiến tranh. Sơ đồ: BBC.

Các cuộc đàm phán về ngừng bắn bắt đầu vào ngày 10/7/1951. Tuy nhiên, tiến trình này liên tục gặp bế tắc vì những vấn đề như trao đổi tù nhân hay vị trí của ranh giới tạm thời. Hai bên cuối cùng cũng ký thỏa ước đình chiến song vì những tác động từ bên ngoài.

Tháng giêng năm 1953, Dwight Eisenhower, vốn công kích cuộc chiến, kế nhiệm Truman làm tổng thống Mỹ. Eisenhower tuyên bố sẵn sàng dùng vũ khí hạt nhân để chấm dứt xung đột ở bán đảo này. Tháng 3/1953, lãnh đạo Liên Xô Joseph Stalin qua đời.

Ngày 27/7/1953, một thỏa thuận ngừng bắn được ký và đường ranh giới tạm thời được xác định là biên giới mới giữa hai nước. Lúc đó, thỏa thuận đình chiến chỉ được xem là tạm thời cho tới khi "hòa bình được thiết lập lại".

Việc đó chưa bao giờ xảy ra. Hội nghị Geneva năm 1954 đã không giải quyết được vấn đề này. Từ đó tới nay, biên giới Triều Tiên vẫn là một điểm nóng.
(theo vnexpress)


Vạn Lý Trường Thành có đúng là một vạn dặm hay không?


Vạn Lý Trường Thành có đúng là một vạn dặm hay không?

Trường Thành là một trong những công trình vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới và cũng là niềm tự hào của nhân dân Trung Quốc. Trường Thành gọi đầy đủ là Vạn Lý Trường Thành. Vậy có thật nó dài một vạn sặm không?

Thật ra Vạn Lý Trường Thành gồm nhiều đoạn Trường Thành nối liền với nhau do các nước chư hầu đã xây dựng hơn hai ngàn năm trước đây.
Trong hai thời Chiến Quốc và Xuân Thu, chiến tranh luôn luôn nổ ra, các nước chư hầu muốn chống lại lẫn nhau đã xây dựng những đoạn Trường Thành tại các nơi có hình thế hiểm yếu nhằm phòng vệ cũng như ngăn chặn sức tấn công từ các nước khác.
Đến năm 251 trước Công nguyên, Tần Thuỷ Hoàng thống nhất toàn cõi Trung Quốc, một mặt ông ra lệnh phá bỏ các bức tường thành trước kia dựng lên giữa các nước; mặt khác, nhằm ngăn chặn kỵ binh Hung Nô ở miền Bắc xâm lược xuống miền Nam, ông ra lệnh nối liền các đoạn Trường Thành ở phương Bắc của ba nước Tần, Triệu, Yên. Ngoài ra còn củng cố và kéo dài để hoàn thành bức Trường Thành của nhà Tần, bắt đầu từ phía Tây từ Lâm Thao (nay là huyện Mân ở tỉnh Cam Túc), phía Đông kéo dài tới Liêu Đông, với chiều dài hơn một vạn dặm Trung Quốc, về sau được gọi là Vạn Lý Trường Thành. Công trình này đã được tiến hành với quy mô cực kỳ lớn. Thời bấy giờ đã điều động tới hơn năm mươi vạn dân công và phải mất hơn mười năm mới hoàn thành, rất nhiều nhân công đã chỉ có đi mà không có về.
Truyền thuyết về nàng Mạch Khương khóc đổ Trường Thành chính là đã nảy sinh trong thời kỳ này. Về sau nhiều triều đại đã tu sửa và xây dựng thêm Trường Thanh, trong đó hai triều đại Hán và Minh tiến hành với quy mô lớn nhất. Trường Thành mà ngày nay chúng ta trông thấy là Trường Thành xây dựng vào đời Minh, nó bắt đầu từ Sơn Hải Quan thuộc tỉnh Hà Bắc, chạy ngang qua Hà Bắc, Bắc Kinh, Sơn Tây, Nội Mông, Thiểm Tây, Ninh Hạ, Cam Túc, tổng cộng bảy tỉnh, khu tự trị và thành phố trực thuộc, kéo dài sáu ngàn bảy trăm km tức là hơn mười ba ngàn dặm Trung Quốc


Những đoạn Trường Thành chính đầu tiên được Tần Thủy Hoàng cho xây dựng bằng cách ghép nối các đoạn thành nhỏ do các nước bại trận thời Chiến quốc xây nên. Mục đích là để ngăn chặn các đợt tấn công của những bộ tộc du mục phương Bắc, mối đe dọa lớn vào thời đó. Ngày nay, Vạn Lý Trường Thành thời Tần chỉ còn là phế tích và nằm xa hơn về phía bắc so với Trường Thành hiện tại.
5 điều lý thú về Vạn Lý Trường Thành
Một đoạn trường thành thời Minh còn được giữ nguyên vẹn.
Sau thời Tần, các vua chúa khác của Trung Quốc tiếp tục xây dựng thêm các đoạn thành mới. Vạn Lý Trường Thành ngày nay được xây từ thời Minh, bắt đầu vào nửa sau thế kỷ 14 và kết thúc vào giữa thế kỷ 17. Oái oăm là dù các vua thời Minh đầu tư rất nhiều cho Trường Thành, triều đại này lại sụp đổ khi tướng Ngô Tam Quế phản bội và mở cổng Trường Thành tại Sơn Hải Quan để người Mãn Châu tràn vào.
Vạn Lý Trường Thành dài bao nhiêu?
Tên Vạn Lý Trường Thành (Tường thành dài vạn dặm) chỉ làmang ý nghĩa tượng trưng, vì mỗi thời có chiều dài khác nhau, thay đổi liên tục vì nhiều đoạn bị hư hại hoặc được xây dựng thêm. Ngày nay, Trường Thành dài 6.352 km và chạy từ bờ biển Bột Hải tới Tân Cương.
5 điều lý thú về Vạn Lý Trường Thành
Bản đồ Vạn Lý Trường Thành. Đoạn còn lại ngày nay có màu vàng.
Xây Vạn Lý Trường Thành bằng gì?
Tên gọi nghe hoành tráng nhưng khởi đầu, Vạn Lý Trường Thành được xây bằng đất nện với các tháp canh ở khoảng cách đều nhau. Thời đó, triều đình bắt người dân phải đắp thành và họ thường xuyên bị bọn cướp tấn công. Số người chết nhiều tới mức các công trường được gọi là “Nghĩa địa dài nhất Trái đất” và có số liệu cho biết khoảng 1 triệu người đã chết trong quá trình xây dựng.
Sau này, Vạn Lý Trường Thành vẫn được xây bằng đất nên rất dễ bị mưa gió hay tác động từ con người làm hư hại. Đến thời Minh, Trường Thành được xây bằng gạch đá kiên cố hơn và nhờ vậy nhiều đoạn dài vẫn còn tới ngày nay.
Vật liệu xây dựng cũng tùy theo từng địa phương. Ở những nơi sẵn đá thì dùng đá để đắp Trường Thành, cũng có những nơi vẫn dùng gạch nung. Thậm chí cả loại keo làm từ gạo và lòng trắng trứng cũng được dùng trong xây dựng. Rùng rợn hơn nữa còn có những lời đồn đại khi xây bức tường thành, cần phải huy động một số lượng lớn nhân lực, phần đông số họ là những nông dân bần cùng. Họ vừa xây thành vừa bị đánh đập thúc giục nên hầu hết đều bỏ mạng trong khi "làm nhiệm vụ". Xác của những người này bị ném hết vào công trình, sau đó phủ đất lên.
5 điều lý thú về Vạn Lý Trường Thành
5 điều lý thú về Vạn Lý Trường Thành
Một đoạn thành như con rồng đá như nằm trong sương.
Có những điểm gì nổi tiếng trên Vạn Lý Trường Thành?
Điểm nhấn trên hàng ngàn dặm của Trường Thành chính là các cửa ải. Đó là những nơi tập trung đông quân canh gác vì là cửa ngõ để ra vào vùng đất được bảo vệ. Có khá nhiều cửa ải nổi tiếng trong hàng ngàn năm lịch sử của Trường Thành và dưới đây là 3 cái tên quen thuộc nhất.
5 điều lý thú về Vạn Lý Trường Thành
Một cửa ải nằm chênh vênh trên núi cao.
Sơn Hải Quan là cửa ải đầu tiên ở phía đông, và vẫn còn trong tình trạng tốt. Nơi đây gắn với sự kiện người Mãn Châu vượt Trường Thành vào Trung Quốc, đánh dấu sự sụp đổ của nhà Minh cũng như vai trò quân sự của Vạn Lý Trường Thành. Tường thành tại pháo đài Sơn Hải Quan cao 14m và dày 7m.
Nhạn Môn Quan là cửa ải rất nổi tiếng trong truyện kiếm hiệp vì thường được xem là nơi phân chia ranh giới giữa Trung Quốc và đại mạc Mông Cổ. Nhân vật Kiều Phong trong truyện "Thiên Long bát bộ" của Kim Dung đã tự sát tại đây và được xem là biểu tượng của sự bi tráng. Cái tên Nhạn Môn Quan xuất phát từ địa thế hiểm yếu khiến ngay cả bầy chim nhạn cũng phải bay men theo vách núi mới qua được ải.
5 điều lý thú về Vạn Lý Trường Thành
Gia Dụ Quan nằm ở điểm cực Tây của Vạn Lý Trường Thành ngày nay và cũng đánh dấu nơi bắt đầu của Con đường tơ lụa danh tiếng. Đây cũng là một trong các điểm du khách thường viếng thăm.
Tuy vậy, nơi mà khách du lịch biết tới nhiều nhất lại là Bát Đạt Lĩnh, đoạn Trường Thành nằm gần Bắc Kinh, một trong các điểm du lịch chính của thành phố này. Tuy nhiên, đoạn Trường Thành này đang bị xuống cấp vì các du khách thiếu ý thức thường vẽ bậy nhằm “để lại dấu ấn”.
Có nhìn được Vạn Lý Trường Thành từ vũ trụ không?
5 điều lý thú về Vạn Lý Trường Thành
Trước đây, người Trung Quốc thường tự hào rằng Vạn Lý Trường Thành có thể nhìn được từ mặt trăng. Nhưng các nhà du hành vũ trụ đã phản bác điều này. Thực tế cho thấy, người ta chỉ nhìn được Vạn Lý Trường Thành từ độ cao dưới 50km, trong điều kiện thời tiết tốt và phải biết rõ vị trí. Vạn Lý Trường thành có độ rộng chỉ vài mét và màu sắc giống với môi trường xung quanh, vì thế chuyện nhìn thấy từ trên mặt trăng chỉ là đồn đại.

Tên của sa mạc lớn nhất châu Á là gì?

Tên của sa mạc lớn nhất châu Á là gì?
`
- Sa mạc Go bi ở Mông cổ
Sa mạc Gobi (tiếng Trung: 戈壁(沙漠) Gēbì (Shāmò); tiếng Mông Cổ: Говь, Govi hay Gov', là sa mạc lớn nhất châu Á. Sa mạc Gobi nằm trên lãnh thổ Trung Quốc và phía nam Mông Cổ. Khu vực sa mạc này giáp dãy núi Altay và các thảo nguyên Mông Cổ về phía bắc, cao nguyên Tây Tạng về phía tây nam, đồng bằng Bắc Trung Quốc về phía đông nam. Đây là sa mạc lớn thứ 4 thế giới về diện tích. Sa mạc này từng là một phần của đế quốc Mông Cổ và cũng là nơi có nhiều thành phố quan trọng dọc theo con đường tơ lụa. Khu vực sa mạc này là một bóng mưa do dãy Hymalaya ngăn các đám mây mang mưa đến Gobi.

Tên của đỉnh núi nổi tiếng ở Hy lạp là gì?


Tên của đỉnh núi nổi tiếng ở Hy lạp là gì?

- Đỉnh Olympia, Người Hy lạp cổ đại coi đây là chỗ ở của các vị thần.

Hãy cho biết tên con sông dài nhất bắc Mỹ!


Hãy cho biết tên con sông dài nhất bắc Mỹ!

`- Sông Mississippi ở Mỹ.

Hãy cho biết tên con sông dài nhất châu Á!

Hãy cho biết tên con sông dài nhất châu Á!


- Sông Trường giang ở Trung quốc.
Trên bề mặt Trái Đất, nước chiếm khoảng 2/3 diện tích, là nguồn sống không thể thiếu đối với con người. Những con sông trên thế giới đã góp phần tạo nên những cánh đồng phì nhiêu và trong số đó, không ít dòng sông là nơi khởi nguồn những nền văn minh của nhân loại.
1. Sông Nile
Sông Nile là con sông dài nhất thế giới (6.732km). Nó xuất phát từ 2 nguồn, một nguồn từ hồ Victoria ở vùng Uganda (được gọi là sông Nile trắng), một nguồn khác từ hồ Tana ở Etiopi (còn được gọi là sông Nile đen). Về nguồn gốc tên gọi sông Nile như ngày nay được xuất phát từ tiếng Hy Lạp - Neilos, có nghĩa là thung lũng sông.
2. Sông Amazon
Amazon (Brazil) là sông dài thứ hai trên thế giới với chiều dài 6.693km và là sông có lưu vực lớn nhất thế giới. Sông Amazon đã được Francisco de Orellan, người Tây Ban Nha phát hiện ra năm 1542. Ban đầu nó được đặt tên là Riomar.
3. Sông Trường Giang (còn gọi là sông Dương Tử)
Trường Giang là con sông dài nhất châu Á và đứng hàng thứ ba trên thế giới với chiều dài 6.300km. Nó bắt nguồn từ phía Tây Trung Quốc - tỉnh Thanh Hải và chảy về phía Đông đổ ra Đông Hải, Trung Quốc.
4. Sông Hoàng Hà
Hoàng Hà là dòng sông dài thứ tư trên thế giới với 5.464km. Nó bắt nguồn từ núi Côn Lôn ở phía Tây Bắc tỉnh Thanh Hải, Trung Quốc, từ độ cao 4.500m trong vùng lòng chảo Yekuzonglie nằm ở phía Bắc của dãy núi Bayankara (hay Ba Nhan Khách Lạp) trên cao nguyên Thanh Tạng.
Hoàng Hà nghĩa là Dòng sông vàng do màu sắc của dòng phù sa mà nó mang theo trên các vùng đất. Nền văn minh sớm nhất của Trung Quốc đã xuất hiện dọc theo hai bờ sông này.
5. Sông Ob-Irtysh
Là con sông dài thứ năm trên thế giới, với 5.409km. Nó bắt nguồn từ chỗ giao của hai sông Biya và Katun ở vùng núi Altai (Nga), sau đó chảy ngang qua vùng Siberia và đổ vào vịnh Ob. Tên gọi Ob - Irtysh xuất phát từ việc các nhà địa lý kết hợp tên của con sông chính (Ob) và nhánh chính của sông (Irtysh) mà thành.
6. Sông Amur
Amur là dòng sông dài thứ sáu trên thế giới với 4.415km, băng qua vùng Viễn Đông thuộc lãnh thổ của nước Nga. Nó được định hình bởi việc trộn lẫn hai dòng Argun và Shilka sau đó đổ vào vịnh Tartar của Thái Bình Dương. Dòng sông uốn lượn theo ranh giới tự nhiên giữa Nga và Trung Hoa trên chiều dài khoảng 1.000 dặm. Khu vực xung quanh sông Amur có đến 95% cò trắng có nguồn gốc từ phương Đông cùng rất nhiều sếu và các loài chim khác.
7. Sông Lena
Sông Lena dài 4.399km, đứng hàng thứ bảy trên thế giới, chảy qua khu vực Trung Đông thuộc lãnh thổ Nga. Nó được định hình gần vùng hồ Baykal sau đó chảy theo hướng Đông Bắc đến biển Arctic. Sông Lena là nơi cư trú của nhiều loài động - thực vật nhưng chỉ được vài tháng của năm vì sau đó dòng sông sẽ bị đóng thành những khối băng rắn chắc.
8. Sông Congo
Sông Congo đứng hàng thứ tám trên thế giới về chiều dài, với 4.373km. Nó bắt nguồn từ chỗ hội lưu của hai con sông Lualaba và sông Luvua thuộc vùng núi Altai (Congo), sau đó chảy về phía Tây Nam, đổ vào biển Atlantic. Những nhánh sông chính bao gồm Aruwimi, Kasai và sông Lomami.
9. Sông Mackenzie
Mackenzie là sông rộng nhất của Canada và là sông dài thứ 9 trên thế giới, với 4.240km. Tàu thuyền chỉ có thể di chuyển được 5 tháng trong năm. Bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 5 năm sau, sông bị đóng băng. Alexander Mackenzie, một người Canada gốc Scotland, đã khám phá ra và người ta đã lấy tên ông để đặt tên cho dòng sông nay.
10. Sông Mê Công
Mê Công là sông dài thứ 10 thế giới, với 4.183km. Đây là con sông rộng nhất vùng Đông Nam Á. Bắt nguồn từ sông Lang Thương (Trung Quốc), từ đây dòng Mê Công tiếp tục chảy qua lãnh thổ của nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á như Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và cuối cùng đổ ra 9 cửa sông của Việt Nam (hay còn gọi là Cửu Long Giang). Một người Bồ Đào Nha tên là Antonio de Faria đã tìm ra dòng sông này vào năm 1540

Tên của rặng núi cao nhất Nam Mỹ là gì?


Tên của rặng núi cao nhất Nam Mỹ là gì?

`- Rặng Anden chạy dọc bở biển Thái bình dương từ Trung Mỹ đến Đất lửa.

Hồ nước ngọt lớn nhất thế giới có tên là gì?


Hồ nước ngọt lớn nhất thế giới có tên là gì?


- Lake Superior ở bắc Mỹ (biên giới Canada và Mỹ)

Diện tích bề mặt trái đất bao nhiêu?


Diện tích bề mặt trái đất bao nhiêu?

- 510 triệu km2



Sông Themse đổ ra biển nào?


Sông Themse đổ ra biển nào?

`- Biển bắc (Nordsee), sông này chảy qua Luân đôn
Sông Themse đổ ra biển nào?

`- Biển bắc (Nordsee), sông này chảy qua Luân đôn

Thành phố nào lớn nhất nước Úc?


Thành phố nào lớn nhất nước Úc?

- Sydney, thành phố tuyệt đẹp bên bờ biển.